Tên di sản : Nhóm bia đá Chùa Vân Lỗi
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 2620/QĐ-UBND
Giới thiệu
Đáng chú ý nhất trong di tích này là nhóm bia đá gồm 05 tấm:
Bia thứ nhất (Tính từ dưới chân núi lên): Bia có tên “Vân Lỗi sơn kí”, được khắc năm Cảnh Hưng thứ 32 (1771). Diềm bia trang trí hoa văn trơn dật 3 cấp, mỗi cấp rộng 2cm. Kích thước thân bia 1,4m x 1,8m với 18 dòng chữ Hán (thể chữ Chân). Nội dung ca ngợi cảnh hùng vĩ, tráng lệ của núi Vân Lỗi.
Bia thứ hai (Đã bị sứt): Tấm bia này do Đại nguyên soái tổng quốc chính, Sư thượng thượng phụ, duệ đoán, Văn công vũ đức Thanh Vương (tức chúa Trịnh Tráng) ngự bút năm 1650 trong một lần đi bái yết Sơn Lăng, có dịp qua núi Vân Lỗi ở Nga Sơn. Bia có chiều dài 1,6m, cao 1,44m; diềm bia rộng 10cm trang trí hoa văn hình Kỷ hà, trong khuông Kỷ hà được trang trí hoa cúc nhiều cánh, diềm thân và diềm đế cùng được thể hiện loại hoa văn Kỷ hà. Trên bia khắc bài thơ thể “Thất ngôn bát cú” nói lên cảnh đẹp của núi non và vùng đất nơi đây.
Bia thứ 3 (còn lành nguyên): Bia có tên là “Sùng Nghiêm tự, Vân Lỗi sơn, Đại Bi nham”, Tác giả tấm bia này là Hữu bộc xạ Hiệp thạch Phạm Sư Mạnh, khắc năm Thiệu Khánh năm thứ 3 (1372). Bia có kích thước cao 1,14m, rộng 87cm, trán bia cao 17cm, trang trí đôi rồng thời Trần ẩn vân, miệng rồng ngậm ngọc. Diềm bia rộng 5cm trang trí hoa văn vân mây, diềm phía dưới rộng 10cm, trang trí hoa văn hình sóng nước. Bia cách mặt sân 50cm. Bia được khắc chữ Hán (thể chữ chân) gồm 25 dòng, mỗi dòng khoảng 30 chữ, ca ngợi cảnh hùng vĩ, sầm uất của núi non và sông nước và làng mạc nơi đây.
Bia thứ 4: Tên bia: “Sùng Nghiêm am tự kí”, có kích thước 72cm x 64cm, diềm bia rộng 6cm, trang trí hoa văn dây cúc leo cách điệu, diềm đế trang trí một lớp hoa văn cánh sen.
Bia được khắc hai hàng chữ chân, hàng trên là tên bia, dưới là hàng chữ dọc ghi pháp hiệu vị sư trụ trì ở chùa nhưng không rõ niên đại vào thời nào?
Bia thứ 5: Nằm ở phía phải của ngôi chùa, đã bị vỡ, kích thước còn lại đo được rộng 1,1m, cao 97cm, diềm bia rộng 6cm, được trang trí hoa văn dây leo cách điệu. Bia cách mặt đất 6cm, nội dung ca ngợi lẽ huyền diệu của đạo Phật, phần sau kê tên những người có tiền, của công đức vào chùa.
Như vậy, sự tồn tại của 05 tấm bia này là một minh chứng cho sự ra đời của ngôi chùa. Nghiên cứu nội dung các văn bia sẽ có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho việc khảo cứu, sưu tầm những nguồn tư liệu cổ, góp phần to lớn trong việc xác định những giá trị văn hoá, vật chất và tinh thần của con người, vùng đ���t Nga Sơn, Thanh Hóa và cả nước.
Kết cấu ngôi chùa:
Hiện trạng ngôi chùa bây giờ là kết quả của lần quyên góp và xây dựng mới đây của nhân dân trong vùng với kết cấu khá đơn giản. Chùa được xây dựng ở sườn phía Nam núi Vân Lỗi, cách mặt đất khoảng 50m.Từ dưới chúng ta đi lên chùa bằng các bậc đá lớn nhỏ khác nhau có chiều rộng 2m.
Phía trước ngôi chùa khoảng 200m có nhánh sông Mã được bắt nguồn từ ngã Ba Bong chảy vòng qua theo chiều từ phải qua trái và đổ ra Lạch Sung. Phía sau là dòng sông Hoạt bắt nguồn là một nhánh của sông Mã đổ ra biển.
Sân chùa được láng xi măng có diện tích 41m2 (8,2m x 5m). Từ sân lên chùa bằng một bậc hè rộng 65cm, cách mặt sân 20cm. Cửa chùa được xây cuốn vòm cao 2,3m: rộng 1,8m. Hệ thống cửa được làm bằng gỗ và sử dụng theo hình thức cửa lùa.
Ngôi chùa có diện tích 30m2 (7,5m x 4m), được xây tường bít đốc xung quanh, phía sau dựa vào vách núi, mái xây cuốn vòm, bên trên lợp ngói vẩy hến.
Trong chùa có 5 bệ thờ:
Bệ thứ nhất: Cao 0,9m, dài 1,3m, rộng 65cm, trên đặt 3 bát hương thờ Tam Sơn bằng gỗ.
Bệ thứ 2: Cao hơn so với bệ thứ nhất 15cm, dài 1,5m, rộng 65cm, gồm 3 pho tượng: Giữa là tượng Thích Ca sơ sinh, bên trái thờ Thánh Tăng, bên phải thờ Đức Ông.
Bệ thứ 3: Cao hơn bệ thứ hai 32cm, dài 1,95m, rộng 75cm, trên đặt tượng Quan Âm nghìn tay nghìn mắt.
Bệ thứ 4: Cao hơn bệ thứ ba 23cm, dài 1,95m, rộng 56cm, giữa đặt tượng Như Lai, hai bên là hai tượng Quan Âm.
Bệ thứ 5: Cao hơn bệ thứ tư 45cm, dài 2,1m, rộng 75cm, phía trên là 3 pho tượng Tam Thế (quá khứ, hiện tại và vị lai). Bên cạnh ngôi chùa là phủ thờ Tiên Sơn Thánh Mẫu được xây dựng năm 1996, gồm 3 gian với kết cấu hai vì gỗ đơn giản truyền thống. Liên kết giữa hai vì và đầu hồi là 2 xà dọc. Hoành, rui, mè làm bằng luồng, trên lợp ngói máy (ngói tây), phía trước ghi dòng Đại tự: “Tiên Sơn Thánh Mẫu từ”. Sân của phủ thờ có kích thước 2,5m x 7,5m. Phía trước có bàn thờ lộ thiên hình bông sen: cao 1,1m, đường kính 57cm.
2 bậc hè:
Bậc 1: cao 25 cm, rộng 24cm; dài 7,5m.
Bậc 2: Cao 13cm; rộng 27cm.
Phủ gồm 3 cửa xây cuốn vòm. Cửa giữa cao 2,05m, rộng 1,38m, cửa hai bên hẹp hơn rộng 1,2m. Mỗi cửa gồm 2 cánh bằng gỗ theo kiểu bức bàn. Phía trong nhà rộng 2,9m; dài 7m, xây tường bít đốc, từ trong nhà lên thượng lương cao 3,5m, nền được lát xi măng. Trong Phủ có 3 bệ thờ ở 3 gian:
Bệ 1 ở gian bên phải dài 1,1m, cao 88cm, rộng 78cm.
Bệ 2 rộng 1,15m; dài 1,75m; cao 90cm.
Bệ 3 rộng 70cm; dài 97cm; cao 88cm.
Hậu cung được xây cuốn vòm, có diện tích 1,34m x 1,34m. Thờ tượng Đức Ông, Đức Thánh Trần, hội đồng Tứ phủ. (trên cùng là tượng Mẫu Địa, dưới là tam toà Thánh Mẫu).
Các hiện vật trong di tích:
Hiện vật đá:
Gồm 05 tấm bia với kích thước khác nhau như đã nói ở phần khảo tả.
Hiện vật gỗ:
Thần vị (hộp) cổ: 02 chiếc.
Hộp đựng sắc phong cổ: 01 chiếc.
Tam Sơn cổ (loại nhỏ): 03 pho.
Tượng cổ (lớn): 08 pho.
Tượng cô, cậu (nhỏ): 02 pho.
Khay mịch (cổ): 02 chiếc.
Mâm bồng (cổ): 03 chiếc.
Mâm bồng (cổ) (loại trung): 02 chiếc.
Đài chén (cổ): 12 chiếc.
Tượng gỗ cổ được đẽo bằng rìu: 04 pho.
Ống hương, hoa cổ: 08 chiếc.
Hiện vật sứ:
Một bình vôi (thế kỉ XVII) bị vỡ quai; 10 bát hương mới.
Ngoài ra hiện vật bằng đá còn 08 chân tảng, 02 đế cắm lộng, 04 cối đá;
01 chuông đồng nhỏ được cung tiến.